#1T54 quân đội nhân dân Việt Nam Tue Jan 17, 2012 5:38 pm
huynhphuty
Em xin sở lược về T54:
T-54 là dòng tăng chiến đấu chủ lực do Liên Xô (cũ) thiết kế và chế tạo. Phiên bản thử nghiệm của T-54 xuất hiện lần đầu vào tháng 3/1945, ngay trước thời điểm kết thúc Thế chiến thứ hai. T-54 được sản xuất hàng loạt kể từ năm 1947 và nhanh chóng trở thành trụ cột cho lực lượng tăng-thiết giáp Liên Xô cũng như quân đội các nước thuộc khối Warsaw. T-54 và người anh em T-55 là dòng tăng phổ biến nhất trong lịch sử, với “quân số” ước chừng 86.000 đến 100.000 chiếc.
Những chiếc T-54 đầu tiên có mặt đã tăng cường đáng kể sức mạnh cho Hồng quân. Các thông số kỹ thuật trên lý thuyết đều tỏ ra ngang ngửa hoặc vượt trên những đối thủ tăng mới nhất cùng thời. T-54 được đánh giá có thiết kế mang tính cách mạng. Pháo chính 100 mm gắn trên xe chỉ nặng bằng 4/5 pháo của chiếc tăng Đức Panther, bằng 2/3 pháo chính của Tiger I và bằng 1/2 pháo của Tiger II. Trọng lượng nhẹ, động cơ mạnh và khả năng cơ động linh hoạt biến T-54 thành “lô cốt” di động tuyệt vời trên chiến trường.
Xe tăng Liên Xô chưa từng đối đầu trực tiếp với các đối thủ thuộc khối NATO trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh tại châu Âu. Tuy nhiên, sự xuất hiện của T-54/55 ở phía tây lục địa già năm 1960 đã thúc đẩy quân đội Mỹ phát triển chiếc M60 như một đối trọng chính.
T-54 có nhiều phiên bản cải tiến. T-54A được trang bị thêm thiết bị lội nước sâu. T-54AK, T-54K, T-54BK, T-54MK sử dụng làm xe chỉ huy. T-54M được nâng cấp theo tiêu chuẩn của dòng T-55. T-54B có thiết bị quan sát đêm. Xe bọc thép T-54 ARV sử dụng khung gầm của T-54. Trung Quốc cũng sản xuất T-54 và gọi bằng cái tên Type 59.
Trong chiến tranh Việt Nam, những chiếc T-54 đã sát cánh cùng bộ đội Miền Bắc chống lại lực lượng hiện đại của Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa. Trận đánh thành công nhất của T-54 được ghi nhận vào năm 1972, khi trung đoàn thiết giáp 203 Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh bật sư đoàn bộ binh 22 quân lực Việt Nam Cộng Hòa ở Tân Cảnh, mở ra cửa ngõ tấn công Kon Tum.
Ngày 30/4/1975, chiếc tăng T-54 số hiệu 390 của trung đoàn thiết giáp 203 đã húc tung cổng, tiến vào dinh Độc Lập, ghi dấu thời khắc kết thúc cuộc chiến tranh thống nhất đất nước kéo dài hơn 20 năm.
Thông số kỹ thuật chính:
Kích thước dài/rộng/cao (m): 6,45/3,27/2,40
Chiều dài tổng thể (m): 9,0
Trọng lượng (tấn): 36
Vũ khí: Pháo chính D-10T 100 mm, súng máy phòng không DShKM 12,7 mm, súng máy đồng trục SGMT 7,62 mm
Động cơ: diesel V12, công suất 520 mã lực
Tốc độ tối đa: 48 km/h
Tầm hoạt động: 400 km
Sau đây là mô hình của em:
T-54 là dòng tăng chiến đấu chủ lực do Liên Xô (cũ) thiết kế và chế tạo. Phiên bản thử nghiệm của T-54 xuất hiện lần đầu vào tháng 3/1945, ngay trước thời điểm kết thúc Thế chiến thứ hai. T-54 được sản xuất hàng loạt kể từ năm 1947 và nhanh chóng trở thành trụ cột cho lực lượng tăng-thiết giáp Liên Xô cũng như quân đội các nước thuộc khối Warsaw. T-54 và người anh em T-55 là dòng tăng phổ biến nhất trong lịch sử, với “quân số” ước chừng 86.000 đến 100.000 chiếc.
Những chiếc T-54 đầu tiên có mặt đã tăng cường đáng kể sức mạnh cho Hồng quân. Các thông số kỹ thuật trên lý thuyết đều tỏ ra ngang ngửa hoặc vượt trên những đối thủ tăng mới nhất cùng thời. T-54 được đánh giá có thiết kế mang tính cách mạng. Pháo chính 100 mm gắn trên xe chỉ nặng bằng 4/5 pháo của chiếc tăng Đức Panther, bằng 2/3 pháo chính của Tiger I và bằng 1/2 pháo của Tiger II. Trọng lượng nhẹ, động cơ mạnh và khả năng cơ động linh hoạt biến T-54 thành “lô cốt” di động tuyệt vời trên chiến trường.
Xe tăng Liên Xô chưa từng đối đầu trực tiếp với các đối thủ thuộc khối NATO trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh tại châu Âu. Tuy nhiên, sự xuất hiện của T-54/55 ở phía tây lục địa già năm 1960 đã thúc đẩy quân đội Mỹ phát triển chiếc M60 như một đối trọng chính.
T-54 có nhiều phiên bản cải tiến. T-54A được trang bị thêm thiết bị lội nước sâu. T-54AK, T-54K, T-54BK, T-54MK sử dụng làm xe chỉ huy. T-54M được nâng cấp theo tiêu chuẩn của dòng T-55. T-54B có thiết bị quan sát đêm. Xe bọc thép T-54 ARV sử dụng khung gầm của T-54. Trung Quốc cũng sản xuất T-54 và gọi bằng cái tên Type 59.
Trong chiến tranh Việt Nam, những chiếc T-54 đã sát cánh cùng bộ đội Miền Bắc chống lại lực lượng hiện đại của Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa. Trận đánh thành công nhất của T-54 được ghi nhận vào năm 1972, khi trung đoàn thiết giáp 203 Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh bật sư đoàn bộ binh 22 quân lực Việt Nam Cộng Hòa ở Tân Cảnh, mở ra cửa ngõ tấn công Kon Tum.
Ngày 30/4/1975, chiếc tăng T-54 số hiệu 390 của trung đoàn thiết giáp 203 đã húc tung cổng, tiến vào dinh Độc Lập, ghi dấu thời khắc kết thúc cuộc chiến tranh thống nhất đất nước kéo dài hơn 20 năm.
Thông số kỹ thuật chính:
Kích thước dài/rộng/cao (m): 6,45/3,27/2,40
Chiều dài tổng thể (m): 9,0
Trọng lượng (tấn): 36
Vũ khí: Pháo chính D-10T 100 mm, súng máy phòng không DShKM 12,7 mm, súng máy đồng trục SGMT 7,62 mm
Động cơ: diesel V12, công suất 520 mã lực
Tốc độ tối đa: 48 km/h
Tầm hoạt động: 400 km
Sau đây là mô hình của em: